Mục đích chủ yếu của việc cơ cấu
lại ngành điện là đem lại cho khách hàng khả năng lựa chọn rộng rãi hơn
các nhà cung cấp điện trong khi vẫn duy trì độ tin cậy truyền tải điện.
Khi cơ cấu lại ngành điện, người ta vẫn hình dung rằng lưới truyền tải
điện đương nhiên là phải linh hoạt, tin cậy, và rộng mở đối với mọi trao
đổi, bất kể các đơn vị cung cấp và các hộ tiêu thụ điện nằm ở đâu.
Truyền tải điện cao thế, một vài công nghệ khác nhau (Ảnh minh họa) |
Tuy nhiên, lưới truyền tải hiện có cũng
như cơ sở hạ tầng quản lý lưới truyền tải hiện nay đều chưa thể hỗ trợ
một cách đầy đủ những trao đổi đa dạng và rộng mở như vậy. Những giao
dịch rất đáng thực hiện xét theo quan điểm thị trường có thể khác xa so
với những giao dịch mà lưới điện truyền tải đã được thiết kế để thực
hiện, và có thể ảnh hưởng tới giới hạn vận hành an toàn. Những rủi ro mà
chúng gây ra có thể không được nhận ra kịp thời để ngăn ngừa sự cố khẩn
cấp của hệ thống, và khi xảy ra sự cố, có thể đó lại là những loại sự
cố ngoài dự kiến, khó xử lý nếu không sa thải phụ tải khách hàng.
Hệ thống truyền tải được xây dựng nhằm
đáp ứng nhu cầu ban đầu của các công ty điện lực được tổ chức theo ngành
dọc, đó là đưa điện năng từ cơ sở phát điện của công ty điện lực địa
phương tới khách hàng của công ty. Việc kết nối các công ty điện lực ban
đầu là nhằm giảm chi phí vận hành, và tăng độ tin cậy. Nghĩa là nếu bất
ngờ bị mất một nguồn điện, công ty điện lực có thể tạm thời dựa vào
công ty điện lực hàng xóm, nhờ đó giảm chi phí liên quan đến việc duy
trì đủ nguồn điện dự phòng sẵn sàng hoạt động. Lưới điện không được
thiết kế để truyền tải một lượng lớn điện năng đi xa.
Một trong những vấn đề khó khăn chủ yếu
trong quản lý việc truyền tải điện năng đi xa là hiệu ứng “dòng công
suất quẩn”. Dòng công suất quẩn tạo ra do bản chất không điều khiển được
của hệ thống truyền tải. Khi dòng điện truyền từ người bán tới người
mua, nó không đi theo bất kỳ một “tuyến theo hợp đồng” nào đã được định
sẵn. Trên thực tế, dòng điện lan truyền (hoặc chạy quẩn) trong toàn bộ
lưới điện.
Lưới điện truyền tải điện cao thế tại Mỹ (Ảnh minh họa) |
Đường bao màu cho thấy phần tỉ lệ phần
trăm của dòng truyền tải chạy qua mỗi đường dây; những đường dây mang
không dưới 2% dòng điện truyền tải đều có đường bao màu.
Vấn đề dòng công suất quẩn là, khi có
hàng trăm hay thậm chí hàng nghìn giao dịch đồng thời trên hệ thống
truyền tải, sẽ dẫn đến sự cản trở lẫn nhau và tạo ra tắc nghẽn. Giảm tắc
nghẽn là nhiệm vụ khó khăn về mặt kỹ thuật, và những vấn đề rất phức
tạp nảy sinh khi tuyến dẫn dài, đi qua một số vùng mà trước đây người ta
chưa từng phải điều phối những dạng vận hành như vậy. Các vấn đề này
bao gồm (và không phải chỉ có vậy) việc thiếu các qui trình hiệu quả,
thiếu kinh nghiệm vận hành, mô hình máy tính, và nguồn dữ liệu tích hợp.
Lượng dữ liệu, thông tin khổng lồ về trạng thái hệ thống, các giao
dịch, sự kiện đang là những khó khăn rất lớn gây ảnh hưởng đến hạ tầng
kỹ thuật của công tác quản lý lưới điện hiện tại.
Để tăng công suất truyền tải của lưới
điện truyền tải quốc gia (National Transmission Grid – NTG) cần phải ứng
dụng kết hợp phần cứng với công nghệ thông tin. Về phần cứng, nhiều
công nghệ có thể được phát triển, chỉnh sửa hoặc đơn giản chỉ cần lắp
đặt trực tiếp để tăng cường khả năng truyền tải hiện nay. Các phương
pháp này bao gồm, từ việc tăng cường thụ động (như xây dựng mới đường
điện xoay chiều trên hành lang tuyến mới hoặc sử dụng tốt hơn hành lang
tuyến đường dây xoay chiều hiện có nhờ cấu hình và vật liệu thiết bị cải
tiến) tới thiết bị siêu dẫn, thiết bị quy mô lớn nhằm đưa dòng điện
trên lưới đi đúng hướng. Công nghệ truyền tải điện cao áp một chiều
(Hight-voltage Direct Current – HVDC) và công nghệ truyền tải điện xoay
chiều linh hoạt (Flexible Alternating Current Transmission – FACTS) tỏ
ra đặc biệt hấp dẫn đối với việc điều khiển dòng điện. Khi được triển
khai và vận hành hiệu quả, những công nghệ này có thể có giá trị lớn
trong việc nâng cao công suất lưới điện và giảm thiểu nhu cầu xây dựng
các công trình truyền tải mới.
Công nghệ truyền tải cao áp một chiều (Ảnh minh họa) |
Tuy nhiên, điều cấp bách mang tính chiến
lược là phát triển tốt hơn các nguồn lực thông tin về mọi khía cạnh quản
lý lưới điện – quy hoạch, phát triển, và vận hành. Các công nghệ như
FACTS quy mô lớn nói chung đòi hỏi sự hỗ trợ từ hệ thống đo diện rộng
(Wide Area Measurement System – WAMS), mà hiện nay mới chỉ ở dạng nguyên
mẫu. Nếu không có WAMS, công nghệ FACTS hoặc bất kỳ công nghệ điều
khiển lớn nào đều không thể điều chỉnh để đạt được hiệu quả đầy đủ của
nó, và trong trường hợp cực đoan, còn có thể tác động nguy hại trở lại
tới các thiết bị khác. Công nghệ FACTS có thể đem lại cho truyền tải
“sức mạnh” nhưng chưa chắc đã đem lại “sự thông minh” để áp dụng nó.
Xem lại dữ liệu thu thập được từ hệ thống
WAMS của Điện lực Bonneville (Bonneville Power Administration – BPA)
sau sự kiện chao đảo lưới điện năm 1996 cho thấy có thông tin là phản
ứng của hệ thống là bất bình thường và rằng hệ thống điện đang trong
tình trạng dễ bị tổn thương một cách bất thường, nhưng thông tin này đã
bị vùi lấp trong các phép đo được gửi vào và lưu trữ tại trung tâm điều
khiển.
Giá như vào thời đó có những công cụ tốt
hơn thì thông tin này có lẽ đã cảnh báo các nhà vận hành gần 6 phút về
sự việc dẫn tới rã lưới hệ thống.
Thông tin tốt hơn là chìa khóa cho các quyết định quản lý tốt hơn lưới điện.
Thông tin tốt hơn là chìa khóa cho các quyết định quản lý tốt hơn lưới điện.
Thiếu hụt thông tin trong quản lý lưới điện
Khi lưới điện được vận hành tới gần giới
hạn an toàn, thì việc biết chính xác những giới hạn này là tới đâu và
biên vận hành của hệ thống còn lại bao nhiêu ngày càng trở nên quan
trọng hơn. Các giới hạn và biên này phải được ước tính thông qua mô hình
trên máy tính và kết hợp với kinh nghiệm vận hành điều mà các mô hình
khó có thể hoặc nhiều khi không thể phản ảnh được.
“Giới hạn” vận hành an toàn được xác định
bằng rất nhiều khía cạnh của phản ứng của hệ thống và phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện vận hành hệ thống. Một số điều kiện này không được
người vận hành nắm rõ, và thậm chí nếu biết, chúng cũng có thể thay đổi
đột ngột. Các điều kiện quan trọng bao gồm công suất tải lưới điện,
trạng thái vận hành và hoạt động của các thành phần truyền tải quan
trọng, đặc tính của phụ tải điện, trạng thái vận hành và hoạt động của
các hệ thống điều khiển chính, tương tác giữa lưới điện và các máy phát
đấu nối vào lưới điện. Để lưới truyền tải điện phát huy đầy đủ tính
năng, các máy phát phải hỗ trợ điện áp một cách thích đáng cùng với
nhiều chức năng hỗ trợ động khác nhau nhằm duy trì chất lượng điện trong
các điều kiện bình thường và trợ giúp hệ thống khi bị chao đảo.
Tất cả các điều kiện này ngày một trở nên
khó hơn trong việc dự đoán, lập mô hình và đo trực tiếp. Việc cơ cấu
lại ngành điện càng khiến những khó khăn này trở nên nặng nề hơn vì nó
đòi hỏi hạ tầng truyền tải phải được quản lý nhưng với lượng thông tin
tối thiểu liên quan tới các tài sản nguồn. Mượn lời phát biểu của Viện
nghiên cứu điện lực Mỹ (EPRI), thì đây là một trong những lĩnh vực có
“vai trò tương tác tối quan trọng” giữa “công nghệ và chính sách”.
Những năm gần đây, nhiều trường hợp cho
thấy “giới hạn” vận hành an toàn lưới điện tiến sát hơn so với các mô
hình quy hoạch đưa ra. Sự kiện rã lưới Hệ thống miền Tây (Western
System) năm 1996 là đặc biệt điển hình về vấn đề này, nhưng trước đó và
cho đến nay, những cảnh báo lại không mấy rõ ràng. Những yếu tố bất định
về khả năng thực của hệ thống là vấn đề mang tính lâu dài, và cũng có
nhiều vấn đề giống như vậy trên toàn lưới điện truyền tải quốc gia.
Việc phát triển và duy trì các mô hình
thực tế mô phỏng đặc tính của hệ thống điện là khó khăn về mặt kỹ thuật
và hành chính, nó đòi hỏi công nghệ quy hoạch ở mức cao hơn so với trước
đây. Cần phải bổ sung một công nghệ qui hoạch tiên tiến – cộng với đội
ngũ nhân viên am hiểu vấn đề để tư vấn về phát triển và sử dụng công
nghệ này – để hỗ trợ những đáp ứng kịp thời, thích hợp, và hiệu quả về
chi phí cho các nhu cầu của hệ thống. Có nguồn lực kế hoạch tốt hơn là
chìa khoá để vận hành tốt hơn các thiết bị hiện có, lường trước kịp thời
các vấn đề của hệ thống, và nhận thức đầy đủ giá trị mà việc nâng cấp
công nghệ mang lại trên mọi cấp độ của hệ thống điện.
Những thách thức và cơ hội trong điều khiển lưới điện
Như đã lưu ý ở phần trên, hệ thống truyền
tải điện xoay chiều hiện có không thể trực tiếp điều khiển được; dòng
điện lan tỏa ra toàn bộ lưới điện, tuỳ thuộc vào trở kháng của thành
phần trong hệ thống. Ứng với một tập hợp đã cho các điện áp máy phát và
phụ tải hệ thống, hướng công suất trong lưới được quyết định bởi các
thông số của lưới điện.
Điều khiển các thông số lưới điện trong
hệ thống điện xoay chiều thường hết sức hạn chế, vì vậy điều phối các
máy phát là phương tiện cơ bản để điều chỉnh dòng điện nhằm sử dụng tốt
nhất công suất lưới điện. Khi việc điều phối các máy phát không đạt hiệu
quả, lựa chọn duy nhất đó là kiểm soát phụ tải bằng cách hạ điện áp
hoặc ngừng cung cấp điện. Việc khống chế phụ tải là cần thiết ngay cả
khi một số đường dây không mang tải hết công suất.
Giải pháp được ưa chọn sẽ là kiểm soát
dòng công suất ở mức cao hơn so với khả năng hiện nay, cho phép sử dụng
hiệu quả hơn khả năng truyền tải. Các thiết bị truyền thống để kiểm soát
dòng công suất bao gồm các tụ điện nối tiếp nhằm giảm trở kháng đường
dây, thiết bị dịch góc pha, và thiết bị bù cố định được đấu vào cuối
đường dây để điều chỉnh điện áp.
Tất cả các thiết bị loại này sử dụng các
thiết bị đóng cắt cơ khí, giá thành tương đối rẻ và đã qua kiểm chứng
nhưng thao tác chậm và dễ bị mòn hỏng, điều này có nghĩa là không nên
thao tác thường xuyên và /hoặc sử dụng cho nhiều chế độ; tóm lại, thiết
bị đóng cắt cơ khí không phải là thiết bị điều khiển thực sự linh hoạt.
Tuy nhiên, chúng vẫn là những phương tiện cơ bản dùng để điều khiển theo
cấp các dòng công suất lớn.
Thiết bị truyền tải HVDC cho phép điều
khiển ở mức cao hơn nhiều. Nếu như có đủ sự hỗ trợ của hệ thống điện
xoay chiều xung quanh, thì có thể kiểm soát được một cách chính xác và
nhanh chóng dòng điện chạy trên đường dây HVDC bằng cách đặt tín hiệu
lên các bộ biến đổi, từ điện xoay chiều sang điện một chiều và sau đó
trở lại xoay chiều. Trong các điều kiện đặc biệt, việc điều khiển HVDC
cũng có thể dùng để điều chỉnh điện áp xoay chiều tại một hoặc nhiều bộ
biến đổi. Khả năng linh hoạt này có được là nhờ sử dụng thiết bị đóng
cắt điện tử bán dẫn, thường là thyristor tức là các thiết bị GTO.
Mặc dù việc điều khiển HVDC có thể ảnh
hưởng tới dòng công suất nói chung, nhưng ít khi nó có thể khống chế
được đầy đủ dòng điện trên các đường dây truyền tải xoay chiều cụ thể.
Tuy nhiên, nếu được nâng cấp để sử dụng các bộ phận đóng cắt điện tử
thay vì cơ khí, các bộ điều khiển dòng công suất truyền thống có thể đạt
được khả năng khống chế này. Việc nâng cấp này mở đường cho cả một lớp
rộng lớn và ngày càng đông đảo các công nghệ điều khiển mới, mang tên
công nghệ FACTS. Rất ít công ty điện lực sẵn sàng vượt qua tình trạng
ngõ cụt này khi mà chức năng quản lý, nơi mà những công nghệ cao như
FACTS là sự thích hợp đầu tiên, đang chuyển từ các công ty điện lực sang
một cơ sở hạ tầng mới dựa trên các Tổ chức Truyền tải điện Khu vực
(Regional Transmission Organization – RTO), các cơ sở Vận hành Hệ thống
Độc lập (Indepedent System Operator – ISO) và các pháp nhân khác.
Sự quá độ này còn lâu mới có thể gọi là
hoàn thành ở phần lớn khu vực ở Hoa Kỳ, và đến nay vẫn chưa có “hình mẫu
thiết kế” cho bản chất và yêu cầu về công nghệ của cơ sở hạ tầng mới
này.
Nhãn:
điện cao thế,
truyền tải điện